image banner
TIN NÓNG
DỊCH VỤ CÔNG

image advertisement
 
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement

Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Tổng kết đánh giá tình hình thực hiện và đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư năm 2020 và Nghị định 31/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ

Trong bối cảnh nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu rộng, việc hoàn thiện hành lang pháp lý về đầu tư đóng vai trò then chốt để thu hút dòng vốn chất lượng, ổn định và bền vững. Luật Đầu tư năm 2020 và Nghị định 31/2021/NĐ-CP là những văn bản pháp luật quan trọng về hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng, một số quy định trong các văn bản này đã bộc lộ những bất cập, chồng chéo hoặc thiếu cụ thể, gây khó khăn cho quá trình triển khai thực tế.

Từ vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư, Ban Quản lý Khu kinh tế Đông Nam Nghệ An đã tiến hành rà soát kỹ lưỡng các quy định hiện hành, tổng hợp và đề xuất một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung để bảo đảm phù hợp với quy định pháp luật, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước và tạo thuận lợi tối đa cho nhà đầu tư, doanh nghiệp, cụ thể:

1. Đối với dự án đầu tư mở rộng

a) Khó khăn, vướng mắc:

Hiện nay, theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Luật Đầu tư giải thích từ ngữ "Dự án đầu tư mở rộng là dự án đầu tư phát triển dự án đầu tư đang hoạt động bằng cách mở rộng quy mô, nâng cao công suất, đổi mới công nghệ, giảm ô nhiễm hoặc cải thiện môi trường".

Và tại khoản 3 Điều 15 Luật Đầu tư quy định: "3. Ưu đãi đầu tư được áp dụng đối với dự án đầu tư mới và dự án đầu tư mở rộng".

Như vậy, Luật Đầu tư có quy định đối với dự án đầu tư mở rộng. Tuy nhiên, hiện nay Luật Đầu tư, Nghị định số 31/2021/NĐ-CP không có quy định cụ thể trình tự, thủ tục thực hiện dự án đầu tư mở rộng như thế nào? Trường hợp dự án đầu tư mở rộng khác gì so với dự án đầu tư điều chỉnh tăng quy mô, nâng công suất…

b) Kiến nghị, đề xuất

Đề nghị quy định rõ trình tự, thủ tục đối với dự án đầu tư mở rộng.

2. Về Hình thức đầu tư

2.1. Về hình thức đầu tư thành lập tổ chức kinh tế

a) Khó khăn, vướng mắc:

- Khoản 2 Điều 22 Luật Đầu tư quy định "Kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc giấy tờ khác có giá trị pháp lý tương đương, tổ chức kinh tế do nhà đầu tư nước ngoài thành lập là nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư theo quy định tại Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư".

Tuy nhiên, theo biểu mẫu số A.II.8 ban hành kèm theo Thông tư số 03/2021/TT-BKHĐT thì Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư lần đầu ghi nhận các nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân góp vốn đầu tư. Trường hợp khi thực hiện việc điều chỉnh dự án đầu tư từ lần thứ nhất trở đi biểu mẫu có ghi nhận nội dung tổ chức kinh tế thực hiện dự án. Trường hợp đề nghị điều chỉnh nhà đầu tư là tổ chức kinh tế thực hiện dự án thì sẽ bất cập, vì khi thay đổi thành viên góp vốn hoặc cổ đông của Công ty là tổ chức kinh tế thực hiện dự án tại Sở Tài chính thì cơ quan đăng ký đầu tư không nắm được, dẫn đến tình trạng chuyển nhượng dự án (dưới dạng thay đổi cổ đông, thành viên góp vốn của tổ chức kinh tế thực hiện dự án) khi chưa đảm bảo điều kiện theo quy định của pháp luật.

b) Kiến nghị, đề xuất

Đề nghị quy định rõ trường hợp nhà đầu tư đề nghị điều chỉnh tổ chức kinh tế thực hiện dự án thành nhà đầu tư trên Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư thì như thế nào?

2.2. Về hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC

a) Khó khăn, vướng mắc

Khoản 4 Điều 21 Luật Đầu tư quy định đầu thư theo hình thức hợp đồng BCC. Tại khoản 14 Điều 3 quy định  "Hợp đồng hợp tác kinh doanh (sau đây gọi là hợp đồng BCC) là hợp đồng được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh, phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm theo quy định của pháp luật mà không thành lập tổ chức kinh tế". Và Khoản 3 Điều 27 Luật Đầu tư quy định Các bên tham gia hợp đồng BCC thành lập ban điều phối để thực hiện hợp đồng BCC và Điều 50 quy định chấm dứt hoạt động của Ban điều phối. Tuy nhiên, tại Điều 28 Luật Đầu tư lại quy định: "Trong quá trình thực hiện hợp đồng BCC, các bên tham gia hợp đồng được thỏa thuận sử dụng tài sản hình thành từ việc hợp tác kinh doanh để thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp".

Như vậy, hiện nay quy định Luật Đầu tư chưa thống nhất trong hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC. Và pháp luật chưa quy định rõ tài sản hình thành từ việc hợp tác kinh doanh được xác định tại thời điểm nào? Điều này dẫn đến lúng túng cho cơ quan đăng ký đầu tư.

b) Kiến nghị, đề xuất

Đề nghị quy định rõ thời điểm xác định tài sản hình thành từ việc hợp tác kinh doanh để thành lập doanh nghiệp theo hình thức đầu tư hợp đồng BCC. Đồng thời trong quá trình thay đổi thành viên góp vốn, cổ đông của doanh nghiệp được hình thành từ hợp đồng BCC thì hậu quả pháp lý của hợp đồng BCC như thế nào?

3. Về thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của UBND cấp tỉnh

a) Khó khăn, vướng mắc

Tại khoản 2 Điều 32 Luật Đầu tư quy định: "Đối với dự án đầu tư quy định tại các điểm a, b và d khoản 1 Điều này thực hiện tại khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế phù hợp với quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế chấp thuận chủ trương đầu tư".

Tuy nhiên, hiện nay pháp luật quy định nhiều loại quy hoạch khác nhau. Khi thẩm định các nội dung để chấp thuận chủ trương đầu tư sẽ đánh giá đầy đủ. Nhưng để xác định thẩm quyền chấp thuận đầu tư thì chỉ nên quy định phù hợp với quy hoạch xây dựng.

b) Kiến nghị, đề xuất

Đề nghị quy định trường hợp dự án thực hiện tại khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế phù hợp với quy hoạch xây dựng đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế chấp thuận chủ trương đầu tư.

4. Về việc điều chỉnh chủ trương đầu tư

a) Khó khăn, vướng mắc

Tại khoản 3 Điều 41 Luật Đầu tư quy định các trường hợp phải điều chỉnh chủ trương đầu tư và quy định chuyển tiếp tại Điều 77 Luật Đầu tư, Điều 117 Nghị định số 31/2021/NĐ-CP. Tuy nhiên, hiện nay có một số dự án đầu tư có quyết định chủ trương đầu tư và không có Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (do không thuộc diện phải cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư theo quy định khoản 2 Điều 37 Luật Đầu tư), khi điều chỉnh các nội dung không thuộc diện phải điều chỉnh chủ trương đầu tư, cơ quan quản lý nhà nước không có cơ sở để điều chỉnh chủ trương đầu tư (do không thuộc khoản 3 Điều 41 Luật Đầu tư). Điều này dẫn đến nhà đầu tư không có văn bản giấy tờ gì thể hiện các nội dung được điều chỉnh và sẽ khó khăn trong quá trình thực hiện các thủ tục liên quan.

b) Kiến nghị, đề xuất

Đề nghị quy định trường hợp không thuộc diện điều chỉnh chủ trương đầu tư nhưng nhà đầu tư có nhu cầu và đề nghị điều chỉnh thì cơ quan quản lý nhà nước vẫn thực hiện việc điều chỉnh chủ trương đầu tư (tương tự như trường hợp cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư).

5. Về việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư

a) Khó khăn, vướng mắc

Tại khoản 2 Điều 37 quy định các trường hợp không phải cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và phải báo cáo theo khoản 5 Điều 72 Luật Đầu tư. Tuy nhiên, với quy định này dẫn đến trước khi thực hiện dự án, nhà đầu tư lập báo cáo gửi cơ quan đăng ký đầu tư (không có quy định về việc cơ quan đăng ký đầu tư có cho phép việc triển khai thực hiện dự án đó hay không). Trường hợp dự án sẽ không phù hợp với quy hoạch, không đảm bảo các điều kiện theo quy định của pháp luật và khi gửi báo cáo lên cơ quan quản lý nhà nước thì có thể coi là dự án đã được chấp thuận. Mặt khác, trong quá trình thực hiện các thủ tục khác, các cơ quan có liên quan đề nghị cơ quan đăng ký đầu tư xác nhận dự án. Trong khi đó tại khoản 8 Điều 77 Luật Đầu tư quy định "Trường hợp pháp luật quy định thành phần hồ sơ thực hiện thủ tục hành chính phải có Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư, nhưng dự án đầu tư không thuộc trường hợp cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, chấp thuận chủ trương đầu tư theo quy định của Luật này thì nhà đầu tư không phải nộp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư". Điều này gây khó khăn cho cơ quan đăng ký đầu tư trong việc xác nhận dự án đó thực hiện có đảm bảo quy định của pháp luật hay không.

b) Kiến nghị, đề xuất

Đề nghị quy định tất cả các dự án đầu tư phải có giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Trường hợp quy định không phải cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư như hiện nay thì phải bổ sung quy định cơ chế quản lý của cơ quan đăng ký đầu tư khi tiếp nhận báo cáo của nhà đầu tư (có văn bản đồng ý hay không đồng ý về việc triển khai thực hiện dự án).

6. Về ưu đãi đầu tư

a) Khó khăn, vướng mắc:

Theo Thông tư số 03/2021/TT-BKHĐT ngày 09/4/2021 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (nay là Bộ Tài chính) quy định biểu mẫu thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam, đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài và xúc tiến đầu tư: Biểu mẫu Quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư và Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư yêu cầu cơ quan chấp thuận chủ trương đầu tư và cơ quan đăng ký đầu tư ghi rõ hình thức ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và căn cứ, điều kiện áp dụng (nếu có).

Tuy nhiên, tại khoản 6 Điều 13 Luật Đầu tư năm 2020 quy định: “Ưu đãi đầu tư được áp dụng có thời hạn và trên cơ sở kết quả thực hiện dự án của nhà đầu tư. Nhà đầu tư phải đáp ứng điều kiện hưởng ưu đãi theo quy định của pháp luật trong thời gian hưởng ưu đãi đầu tư”. Ngoài ra, Điều 17 Luật Đầu tư năm 2020 quy định về thủ tục áp dụng ưu đãi đầu tư: “Căn cứ đối tượng quy định tại khoản 2 Điều 15 của Luật này, văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư (nếu có), Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (nếu có), quy định khác của pháp luật có liên quan, nhà đầu tư tự xác định ưu đãi đầu tư và thực hiện thủ tục hưởng ưu đãi đầu tư tại cơ quan thuế, cơ quan tài chính, cơ quan hải quan và cơ quan khác có thẩm quyền tương ứng với từng loại ưu đãi đầu tư”.

Sau khi được cấp phép, dự án có được hưởng ưu đãi hay không tùy thuộc vào kết quả đánh giá việc thực hiện dự án đầu tư của cơ quan thuế, cơ quan tài chính, cơ quan hải quan và cơ quan khác có thẩm quyền tương ứng với từng loại ưu đãi đầu tư. Việc quy định ưu đãi đầu tư tại Quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư và Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư sẽ có thể phát sinh các mâu thuẫn khi xác định ưu đãi đầu tư trong quá trình thực hiện dự án sau này.

b) Kiến nghị, đề xuất

Đề nghị bỏ nội dung "hình thức ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và căn cứ, điều kiện áp dụng (nếu có)" tại Biểu mẫu Quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư và Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư.

7. Về bảo đảm thực hiện dự án

7.1. Về bảo lãnh ngân hàng

a) Khó khăn, vướng mắc

Theo quy định tại khoản 7 Điều 26 Nghị định 31/2021/NĐ-CP, Nhà đầu tư không phải nộp ngay tiền ký quỹ hoặc chứng thư bảo lãnh của tổ chức tín dụng tại thời điểm quy định tại điểm a khoản 5 Điều 26 đối với trường hợp đã ứng tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư lớn hơn mức bảo đảm thực hiện dự án.

Tuy nhiên theo mẫu A.II.11 văn bản thoả thuận bảo đảm thực hiện dự án đầu tư của Thông tư 25/2023/TT-BKHĐT, đối với trường hợp ngân hàng bảo lãnh nghĩa vụ ký quỹ thì phải có số hợp đồng/chứng thư bảo lãnh nghĩa vụ ký quỹ. Theo đó việc bảo lãnh bắt buộc phải được ký kết trước khi Nhà đầu tư và cơ quan đăng ký đầu tư ký kết văn bản thoả thuận ký quỹ bảo đảm thực hiện dự án.

Như vậy, nếu thực hiện theo Thông tư 25/2023/TT-BKHĐT, đối với Nhà đầu tư lựa chọn hình thức bảo lãnh ký quỹ thì chắc chắn phải nộp trước khi có văn bản thoả thuận ký quỹ, không được tạm hoãn chưa phải nộp đối với các trường hợp tại khoản 7 Điều 26 NĐ 31/2021/NĐ-CP. Theo đó chưa có quy định thống nhất giữa Nghị định số 31/2021/NĐ-CP và Thông tư 25/2023/TT-BKHĐT

b) Kiến nghị, đề xuất

Quy định thống nhất giữa Nghị định số 31/2021/NĐ-CP và biểu mẫu kèm theo Thông tư hướng dẫn.

7.2. Liên quan đến xác định thời điểm ký quỹ

a) Khó khăn, vướng mắc:

- Theo quy định tại điểm a Khoản 5 Điều 26 Nghị định 31/2021/NĐ-CP

“a) Nhà đầu tư thực hiện ký quỹ hoặc nộp chứng thư bảo lãnh của tổ chức tín dụng về nghĩa vụ ký quỹ sau khi được cấp Quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời với chấp thuận nhà đầu tư hoặc Quyết định chấp thuận nhà đầu tư hoặc Quyết định phê duyệt kết quả trúng đấu giá và trước khi tổ chức thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt (đối với trường hợp nhà đầu tư không tạm ứng tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư) hoặc trước thời điểm ban hành quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất (đối với trường hợp nhà đầu tư đã tạm ứng tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư hoặc trường hợp nhà đầu tư được lựa chọn để thực hiện dự án thông qua đấu giá quyền sử dụng đất và được Nhà nước cho thuê đất, trả tiền thuê đất hằng năm);”

- Theo quy định tại điểm d Khoản 9 Điều 26 Nghị định 31/2021/NĐ-CP

“d) Trường hợp điều chỉnh tăng vốn đầu tư của dự án, nhà đầu tư nộp bổ sung số tiền ký quỹ hoặc bổ sung bảo lãnh ký quỹ của tổ chức tín dụng tương ứng với số vốn đầu tư tăng theo quy định tại quyết định chấp thuận điều chỉnh chủ trương đầu tư, Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư điều chỉnh. Trường hợp đã được hoàn trả 50% tiền ký quỹ đã nộp trước khi điều chỉnh thì nhà đầu tư chỉ phải nộp số tiền bằng 50% số tiền ký quỹ phải nộp bổ sung;”

Trường hợp dự án điều chỉnh tăng vốn đầu tư nhưng đã được giao đất, cho thuê đất thì chưa quy định thời điểm nhà đầu tư nộp tiền ký quỹ, bảo lãnh ngân hàng như thế nào?

b) Kiến nghị, đề xuất

Bổ sung quy định thời gian nộp tiền ký quỹ hoặc bảo lãnh ngân hàng trong trường hợp điều chỉnh tăng vốn đầu tư của dự án theo quy định tại điểm d Khoản 9 Điều 26 Nghị định 31/2021/NĐ-CP

7.3. Quy định chuyển tiếp về bảo đảm thực hiện dự án

a) Khó khăn, vướng mắc

Tại khoản 4 Điều 77 Luật Đầu tư và Điều 123 Nghị định số 31/2021/NĐ-CP quy định chuyển tiếp về bảo đảm thực hiện dự án. Trong trường hợp điều chỉnh mục tiêu, tiến độ thực hiện dự án đầu tư, chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định tại khoản 4 Điều 77 Luật Đầu tư thì nhà đầu tư phải thực hiện ký quỹ hoặc bảo lãnh ngân hàng đối với phần dự án được điều chỉnh. Tuy nhiên, về cơ bản các dự án khi điều chỉnh tiến độ thực hiện dự án hoặc điều chỉnh tăng diện tích đất thực hiện dự án thì việc xác định phần nghĩa vụ ký quỹ/bảo lãnh ngân hàng phải thực hiện đối với phần dự án được điều chỉnh là rất khó. Vì số tiền ký quỹ/bảo lãnh ngân hàng được xác định trên tổng vốn đầu tư.

b) Kiến nghị, đề xuất

Đối với các dự án thuộc diện thực hiện quy định chuyển tiếp, đề nghị điều chỉnh các nội dung như mục tiêu, tiến độ thực hiện dự án đầu tư, chuyển mục đích sử dụng đất hoặc tăng diện tích đất thì phải thực hiện ký quỹ/bảo lãnh ngân hàng đối với toàn bộ dự án.

8. Về áp dụng quy định chuyển tiếp

a) Khó khăn, vướng mắc

Luật Đầu tư và Nghị định số 31/2021/NĐ-CP quy định điều khoản chuyển tiếp. Tuy nhiên chưa hướng dẫn rõ việc dự án đã thực hiện điều chỉnh theo điều khoản chuyển tiếp thì khi điều chỉnh lần tiếp theo có được áp dụng theo điều khoản chuyển tiếp nữa không?

b) Kiến nghị, đề xuất

Bổ sung quy định về nguyên tắc áp dụng điều khoản chuyển tiếp.

9. Về vấn đề điều chỉnh, gia hạn thời gian hoạt động dự án

a) Khó khăn, vướng mắc

- Theo quy định tại khoản 2 Điều 27 Nghị định số 31/2021/NĐ-CP, nhà đầu tư có quyền điều chỉnh (tăng hoặc giảm) thời hạn hoạt động dự án, gia hạn thời gian hoạt động dự án. Thời hạn hoạt động của dự án sau khi điều chỉnh hay gia hạn đều không được vượt quá thời hạn quy định tại các khoản 1 và 2 Điều 44 Luật Đầu tư.

Việc thực hiện gia hạn thời gian hoạt động của dự án và điều chỉnh tăng thời hạn hoạt động của dự án thực hiện quy trình khác nhau (điều chỉnh tăng thời gian hoạt động xử lý tương tự với điều chỉnh các nội dung khác theo quy định tương ứng tại các Điều 44, 45, 46 và 47 của Nghị định 31/2021/NĐ-CP, còn gia hạn hoạt động dự án nhà đầu tư phải chuẩn bị hồ sơ và thực hiện quy trình tại khoản 2 Điều 55 Nghị định 31/2021).

Vì vậy, cán bộ xử lý còn lúng túng khi xác định dự án thuộc trường hợp gia hạn thời gian hoạt động dự án hay điều chỉnh tăng thời hạn hoạt động của dự án.

- Theo Điều 44 Luật Đầu tư, việc đánh giá Dự án đầu tư sử dụng công nghệ lạc hậu, tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, thâm dụng tài nguyên chỉ áp dụng đối với các dự án gia hạn thời gian hoạt động dự án. Tuy nhiên, tại khoản 10 Điều 27 Nghị định 31/2021/NĐ-CP lại đưa nội dung này vào đối với cả điều chỉnh thời hạn hoạt động: “Dự án đầu tư sử dụng công nghệ lạc hậu, tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, thâm dụng tài nguyên không được điều chỉnh, gia hạn thời hạn hoạt động...). Như vậy, Luật và Nghị định chưa có sự thống nhất.

- Đối với gia hạn thời gian hoạt động dự án của các dự án có sử dụng đất, khoản 3 Điều 55 Nghị định 31/2021/NĐ-CP đã quy định rõ trong thời hạn tối thiểu 06 tháng trước khi hết thời hạn hoạt động của dự án đầu tư, nhà đầu tư thực hiện thủ tục gia hạn thời hạn hoạt động của dự án đầu tư theo quy định. Tuy nhiên đối với các dự án thuê lại đất trong KCN lại không có quy định cụ thể về thời điểm nhà đầu tư phải làm thủ tục, gây lúng túng cho cơ quan xử lý.

- Về vấn đề xác định công nghệ của dự án có lạc hậu, tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm môi trường, thâm dụng tài nguyên hay không theo khoản 10, điểm b khoản 11 Điều 27 Nghị định số 31/2021/NĐ-CP đối với các dự án gia hạn.

Theo khoản 1 Điều 4 Quyết định số 29/2023/QĐ-TTg ngày 19/12/2023 của Thủ tướng Chính Phủ, trong thành phần hồ sơ cần có Chứng thư giám định máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ sử dụng trong dự án đầu tư còn hiệu lực.

Thực trạng hiện nay có tương đối ít tổ chức được Bộ Khoa học và công nghệ cấp phép thực hiện giám định, chi phí rất cao, thời gian tương đối dài (có thể kéo dài từ 1-2 năm). Trong khi đó, việc một số Nhà đầu tư có quy mô dự án nhỏ, dự án thuê lại nhà xưởng trong các KCN có thời hạn hoạt động ngắn, máy móc thiết bị nhập mới hoàn toàn 100%, mới lắp đặt và vận hành 1-2 năm đã phải thẩm định lại công nghệ theo quy định của Quyết định số 29/2023/QĐ-TTg là tương đối khó khăn cho Nhà đầu tư.

b) Kiến nghị, đề xuất:

- Nghị định cần làm rõ trường hợp nào là điều chỉnh thời hạn hoạt động, trường hợp nào là gia hạn thời gian hoạt động dự án để có cơ sở xử lý.

- Thống nhất quy định của Luật và Nghị định đối với Dự án đầu tư sử dụng công nghệ lạc hậu, tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, thâm dụng tài nguyên có được gia hạn thời gian thực hiện dự án hay không?

- Quy định rõ thời điểm phải thực hiện thủ tục gia hạn thời gian hoạt động dự án của Nhà đầu tư thực hiện dự án thuê lại đất trong khu công nghiệp.

- Xem xét với những dự án đầu tư có thời hạn dưới 10 năm, quy mô nhỏ, đã có các giấy tờ liên quan chứng minh được các máy móc, thiết bị mới 100% khi nhập khẩu ban đầu để thực hiện dự án, tới thời điểm thẩm định có thể được xem xét miễn việc cung cấp loại chứng thư theo Điều 4 Quyết định số 29/2023/QĐ-TTg để giảm thời gian giải quyết thủ tục hành chính, giảm phát sinh chi phí lớn cho doanh nghiệp (đặc biệt là những dự án vừa - nhỏ đã hoạt động ổn định và có nhu cầu tiếp tục thực hiện dự án).

10. Về cơ chế bảo đảm cho cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ về quản lý đầu tư

- Tại Điều 4 Nghị quyết số 193/2025/QH15 về thí điểm một số cơ chế chính sách đặc biệt tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia có quy định:

"Tổ chức, cá nhân hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được miễn trách nhiệm dân sự khi gây ra thiệt hại cho Nhà nước trong quá trình thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước khi đã thực hiện đầy đủ các quy trình, quy định liên quan trong quá trình triển khai thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ".

- Theo quy định tại khoản 5 Điều 16 Nghị quyết số 198/2025/QH15 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân có đưa ra nội dung: "Người đứng đầu cơ quan, đơn vị; cán bộ, công chức, viên chức, người lao động tham gia xây dựng, ban hành và triển khai các cơ chế, chính sách quy định tại Nghị quyết này được xem xét loại trừ, miễn trách nhiệm đối với trường hợp đã thực hiện đầy đủ các quy trình, quy định liên quan, không tư lợi trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, nhưng có thiệt hại do rủi ro khách quan".

Để bảo vệ cán bộ, công chức dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đề nghị bổ sung Điều 6 Nghị định 31/2021/NĐ-CP: "Người đứng đầu cơ quan, đơn vị; cán bộ, công chức được xem xét loại trừ, miễn trách nhiệm đối với trường hợp đã thực hiện đầy đủ các quy trình, quy định của pháp luật đầu tư, không tư lợi trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, nhưng có thiệt hại do rủi ro khách quan".

Những đề xuất nêu trên không chỉ xuất phát từ thực tiễn quản lý tại Ban Quản lý KKT Đông Nam Nghệ An, mà còn mang ý nghĩa đối với việc hoàn thiện chính sách pháp luật đầu tư trên phạm vi cả nước, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, tăng tính minh bạch, hiệu quả, thu hút và đảm bảo quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư.

Anh Đức - Văn phòng